Home » , » Ba luật căn bản về sự phát triển của trẻ

Ba luật căn bản về sự phát triển của trẻ



1) Trật tự và các giai đoạn phát triển

                Trước kia người ta tưởng trẻ em là người lớn tí hơn, nghĩa là trẻ chỉ khác chúng ta về bề cao và sức nặng. Nhưng vậy là không hiểu cách thức phát triển về tình thần và tình cảm của chúng.
                Không phải trẻ chỉ phát triển về thể chất mà thành người lớn được. Chúng thay đổi về mọi phương diện theo một thứ tự nhất đinh, qua những giai đoạn như nhau:
                - Từ hồi sinh tới hai tuổi là tuổi em bé.
                - Từ ba tới năm tuổi là tuổi trước khi đi học.
                - Từ sáu đến mười hai tuổi là tuổi thơ.
                - Từ mười ba đến hai mươi tuổi là tuổi thiếu niên.
                - Sau cùng là tuổi trưởng thành.
                Mỗi gia đoạn đó là gồm nhiều giai đoạn nhỏ, chẳng hạn hai năm đầu có thể chia làm bảy gia đoạn, rồi ba năm sau chia làm bốn gia đoạn nữa. Sự phân chia đó không phải là giả tạo, mà là tự nhiên. Trong những bài sau, tôi sẽ tóm tắt sự phát triển trong mỗi gia đoạn và bạn sẽ thấy rõ lịch trình phát triển ra sao. Ở đây tôi chỉ kể sơ vài thí dụ. Trẻ biết kiểm soát cử động của mặt rồi  mới tới cử động của ngón tay, biết điều khiển sự thăng bằng của đầu rồi mới điều khiển sự thăng bằng của thân thể, biết nắm bằng cả bàn tay rồi mới biết cầm những ngón tay, biết nắm trước rồi mới biết thả sau, biết đập mạnh rồi mới biết đẩy nhè nhẹ. Cử động của bàn tay theo chiều ngang và chiều cao xuất hiện trước những cử động theo chiều nghiêng và theo vòng tròn. Trẻ biết lết rồi mới biết bò, biết bò rồi mới biết đi. Trẻ ê a rồi mới biết nói, biết dùng danh từ trước khi biết dùng liền từ, biết chơi một mình trước khi biết chơi với bạn, hiểu những cái cụ thể trước khi hiểu những cái trừu tượng...



                Thực ra, luật phát triển đó ai cũng đã nhận thấy, nhưng lờ mờ và rất ít người biết áp dụng triệt để vào giáo dục. Chúng ta thường quen nói, cứ tưởng trẻ cũng như chúng ta và nhiều khi vô ý thức bắt trẻ vượt giai đoạn, chẳng hạn bắt trẻ phải sạch, không đái dầm, không ỉa đêm, trước khi chúng ta tới gia đoạn điều khiển được ruột và bằng quang, hoặc hiểu được những cái cụ thể: bắt chúng phải trọng đồ vật của kẻ khác khi chúng chưa có quan niệm gì về quyền sở hữu. Tất nhiên trẻ không làm theo được ý muốn của ta. Như vậy mà phạt chúng thì khác gì trồng một cây chuối mới ba tháng chưa thấy có buồng đã giận dữ muốn lấy dao chặt nó đi không ?

2)Em bé mới sinh là một cá nhân

                Một em bé, khi mới sinh đã là một cá nhân, đã có nhiều đặc điểm. Sự thực, những đặc điểm đó xuất hiện sớm hơn nữa, từ khi nó còn là bào thai. Chỉ xét hình dáng một đứa trẻ mới lọt lòng mẹ, ta cũng đoán chắc lớn lên, nó vào hạng nào trong ba hạng người dưới đây:
                - Hạng thân thể mềm, tròn trĩnh, cổ ngắn, tay chân nhỏ.
                - Hạng thân thể cứng, vuông, bắp thịt nổi.
                - Hạng thân thể nhọn, yếu ớt.
                Tính tình ba hạng đó cũng khác nhau: hạng trên vui tính dễ dàng, thích bạn bè, hạng giữa thì hoạt động, cương quyết, hiếu thắng, thích uy quyền, hạng dưới ít nói, ít hoạt động, thích ở một mình.         Sự phân chia làm ba hạng như vậy có tính cách quá đơn giản, nhưng đủ nhắc bạn nhớ rằng, khi mới sinh, trẻ đã khác nhau rồi, mà sự tương dị đó còn hoài cho tới suốt đời chúng: công giao dục chỉ làm bớt được phần nào cũng tương dị, chứ không thể đồng hóa được tất cả các trẻ , không thể đúc thành những con người hoàn hảo như các nhà kỹ nghệ chế tạo những kiểu xe mới được. Vì vậy mà trong cuốn sách Thời mới, dạy con theo lối mới, tôi đã nói quyền lực của nhà giáo dục có hạn.



                Ai cũng nhận thấy những tính như tính vui vẻ hoặc quạu quọ, tự tín hoặc nhút nhát, nhanh nhẹn hoặc chậm chạp xuất hiển ất hớm và còn hoài cho tới già.
                Ngay những trẻ sinh đôi cũng không giống nhau. Nếu hai đứa do hai quả trứng của người mẹ tạo thành, thì thể chất, tính tình khác nhau hẳn: chúng y như những anh em không sinh đôi. Nếu hai đứa cùng do một quả trứng tạo thành, thì chúng có thể giống nhau đến nỗi khó phân biệt được; cao bằng nhau, cân nặng bằng nhau, vết ngón, tay ngón chân cũng như nhau. Chúng có thể cùng mặc một bệnh một lúc với nhau, rồi cùng khỏi với nhau, hoặc cùng chết với nhau. Nhưng không phải là chúng hoàn toàn giống như nhau đâu. Ông Arnold Gesell đã nghiên cứu trong mười bốn năm một cặp trẻ sinh đôi như vậy ở ban Y khoa đại học đường Yale. Ông đã dùng những phương pháp khoa học để nhận xét, trắc nhiệm, ghi chép sự phát triển về thể chất, tinh thần và tình cảm của chúng. Ông đã huấn luyện một đứa - mà chúng ta gọi là M - để làm mẫu: còn đứa kia - ta gọi là S - ông cho phát triển tự nhiên rồi so sánh hai đứa với nhau mà biết được kết quả công phu huấn luyện với vài cơ năng cơ bản như leo thang, dựng hộp, học dụng ngữ, phối tri cử đông... Và bạn có thể ngờ được không? Kết quả gần như không có gì. M được dạy dỗ công phu: mới đầu có vẻ tiến mau hơn một chút, nhưng cả hai đều đạt tới cái mức già giặn cùng một lúc với nhau: và tới mức đó, chúng khéo léo ngang nhau. Như vậy có đáng chán không chứ ? - Không, đáng mừng nắm chứ ! Ta đỡ phải " nhồi" con cháu chúng ta nữa, đỡ phải giận dữ, gắt gỏng với chúng nữa. Mua sâm nhung tẩm bổ cho chúng ta, thích đủ các thứ sinh tố từ A tới P cho chúng, lựa thầy giáo thật giỏi kèm thêm cho chúng, thì chúng có thể đậu Tú tài sơm được một hai năm, nhưng rốt cuộc chúng cũng phải đợi tới cái tuổi già giặn của mỗi đứa, thì chúng theo chương trình Đại Học mới có kết quả được, như vậy đậu sớm có ích gì đâu ? Cũng như chúng ta đi quãng đường từ Sài Gòn tới Biên Hòa mất tầm 8 giờ, ta thức giục, khuyến khích chúng thì chúng tới Thủ Đức sớm hơn một chút, rồi đuối sức đi chậm lại, rốt cuộc tới Biên Hòa cũng chẳng sớm hơn được phút nào.
                Thí nghiệp của Arnold Gesell còn có một kế quả lý thúc nữa, là hai đứa trẻ sinh đôi đó bề ngoài giống nhau như đúc, mà sự thực vẫn khác nhau, mỗi đứa vẫn có một các tính đặc biệt. Những tương dị tuy nhỏ nhưng bền: M nhanh nhẹn hơn, quả quyết hơn, S thích kết giao hơn: M thích những đường thẳng, đường gẫy, S thích những đường cong: M lựa chọn mau, thấy ngay những chi tiết: S chú ý ngay đến toàn thể. Những tiểu dị đó tới mười bốn tuổi vẫn còn ( Ông ngừng cuộc thí nghiệm ở tuổi đó ).

3) Mỗi em phát triển theo một lối

                Vậy mỗi trẻ là một cá nhân, thể chất, tính tình khác nhau: mà mỗi trẻ cũng có những cách phát triển và thích nghi với hoàn cảnh khác nhau. Về phương diện đó, ta cũng có thể chia trẻ làm ba hạng: A.,B và C.
                Hạng A phát triển chậm: hạng B mau: hạng C lúc mau lúc chậm, không đều.
                A đứng trước trước một tình thế mới thì có vẻ do dự, thận trong: B thì liều lĩnh : C thì bất nhất lúc do dự, lúc liều lĩnh.
                A khôn ngoan: B thông minh: C thỉnh thoảng xuất sắc.
                A bình thản; B vui tính; C lúc vui lúc buồn.
                A để ý tới mọi vấn đề, khi làm việc thì tiến từ từ, dần dần đi sau vào trong; B muốn đi thẳng ngay vào vấn đều; C luc sthif ôm đồm quá, lúc lại chả làm gì cả.
                A biết kiên nhẫn đợi ; B hiểu mau ; C hiểu không kỹ , không đều.
                Cũng như mọi lối phân hạng khác, lỗi trên do ông Arnold Gesell đề nghị  sau mười mấy năm thí nghiệm, chỉ có tính cách khải quát: không phải hễ trẻ nào ở hạng A là có đủ và chỉ có những đặc tính của hạng A; nó có thể có một vài đặc tính của hạng B hay C; nhưng vẫn có nhiều đặc tính ở A hơn cả.
                Do lối phát triển khác nhau của mỗi hạng trẻ mà phương pháp dạy dỗ cũng phải khác: hạng C cần ta săn sóc nhiều nhất, điều khiển từng bước; hạng B cũng cần dắt dẫn nhưng ít hơn; hạng A có thể tự điều khiển được, ta chỉ phải hướng dẫn qua loa thôi.
                Tóm lại, khi dạy trẻ, ta phải nhớ ba luật căn bản:
                - Trẻ nào cũng phát triển theo một thứ tự bất di, qua những giai đoạn nhất đinh.
                Nhưng mỗi đứa vẫn một cá tính riêng.
                - Và có một lối phát triển riêng. 
Nguồn : Nguyễn Hiến Lê " Biên soạn"